Ý Nghĩa 3 Ngày Vía Của Bồ Tát Quán Thế Âm – 19/02, 19/06, 19/09
Quán Thế Âm có xuất xứ từ Ấn Độ Avalokitesvara, có nghĩa là Đấng nhìn xuống trần gian, hoặc là Đấng nghe được lời ca thán của trần gian. Trong đạo Phật, Quán Thế Âm là biểu tượng của Từ bi: xót thương các khổ nạn của chúng sinh mà ra sức cứu độ. Hình tượng Bồ tát Quán Thế Âm vốn rất đỗi thân thuộc với mọi người dân Việt Nam, với nhiều tên gọi khác nhau: Quán Thế Âm; Quán Âm, Quan Âm, Quán Tự Tại…
Vại sao Bồ Tát Quan Âm Avalokitesvara lại hiện thân nữ

Từ xa xưa, Bồ Tát Quán Thế Âm (Avalokitesvara) thường được biểu hiện dưới hình tướng nam nhân, nhưng trong nhiều thời kỳ và vùng đất như Ấn Độ hay Tây Tạng, Ngài cũng hiện thân là người nữ với danh hiệu Tara. Theo truyền thuyết, Tara được hóa sinh từ những giọt nước mắt của Bồ Tát Quán Thế Âm khi Ngài bi mẫn xót thương nỗi khổ của muôn loài. Ở Việt Nam, hình tượng Bồ Tát Quán Thế Âm mang dáng vẻ hiền từ, dịu dàng của người nữ, tiêu biểu như pho tượng Chămpa Avalokitesvara. Có ý kiến cho rằng, do người Chăm theo chế độ mẫu hệ nên tượng Bồ Tát Avalokitesvara được thể hiện là nữ giới.
Theo Hòa thượng Thích Thanh Từ – Viện chủ hệ thống Thiền viện Trúc Lâm, việc Bồ Tát Quán Thế Âm hiện thân nữ là để biểu trưng cho tình thương vô biên, sâu thẳm và tha thiết nhất trong đời – đó chính là tình mẹ. Người mẹ, dù bận rộn đến đâu, chỉ cần nghe tiếng con khóc liền vội vàng buông bỏ mọi việc để đến vỗ về, chở che. Cũng vậy, Bồ Tát Quán Thế Âm khi nghe tiếng kêu thương của chúng sanh liền ứng hiện để cứu khổ, cứu nạn. Chính vì lòng từ bi gần gũi và bao dung ấy mà trong tâm thức dân gian, Ngài được tôn xưng bằng những tiếng gọi thân thương: Mẹ Quán Thế Âm cứu khổ cứu nạn.
Bồ Tát Quán Âm là ai

Bồ tát Quán Thế Âm, còn được gọi là Bồ tát Quán Tự Tại (Avalokitesvara Bodhisattva) chỉ xuất hiện và xuất hiện khá nhiều trong các kinh điển Đại thừa như Hoa nghiêm, Lăng nghiêm, Pháp hoa, Bát nhã Tâm kinh, Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương, Đại Từ Đà la ni, Chuẩn đề Đà la ni… và rất nhiều các ký, sớ, giải, luận về Bồ tát. Ngài được xem là vị Đại bi (trong kinh Pháp hoa) nguyện cứu độ tất cả chúng sinh và Đại trí (trong Bát-nhã Tâm kinh) liễu ngộ năm uẩn đều là không.
Tượng Phật Quan Âm tại India, Nalanda

Các kinh điển trên đều nói đến Bồ tát Quán Thế Âm với hình tướng nam tính, nam giới chứ không phải nữ giới. Bồ tát tượng trưng cho từ bi và trí tuệ. Ngài nghe hết tiếng kêu khổ, tiếng niệm danh hiệu ngài, tiếng cầu xin ngài để được như ý muốn, được cứu độ khỏi khổ đau, tai nạn…
Bồ-tát Quán Thế Âm được quan niệm là hình ảnh phụ nữ, là mẹ, là Phật… có lẽ dính dáng đến nguyên lý Mẹ mà rất nhiều văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo… theo đó đều có các thánh nữ. Đặc biệt, trong Phật giáo Mật tông Tây Tạng có thờ thánh mẫu Tara gồm nhiều vị. Truyền thuyết cho rằng vị Tara được sinh ra từ nước mắt của Đức Quán Thế Âm; rằng trong kiếp xa xưa, mẹ Tara đã là một vị công chúa quyết tâm tu, quyết giữ hình hài nữ giới cho đến khi thành Phật. Xin nói thêm, thánh nữ Tara còn được hiểu là hàng chục vị, có thể đến hơn một trăm vị, được phân biệt theo màu sắc của các tranh tượng. Tara màu xanh (Lục độ Tara) là vị tiêu biểu nhất.
Ý nghĩa cứu khổ cứu nạn vẫn được coi là tượng trưng cho hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm.

Trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn, ý nghĩa cứu khổ cứu nạn được trình bày một cách sâu sắc và cảm động, biểu trưng cho hạnh nguyện vĩ đại của Bồ Tát Quán Thế Âm. Kinh mô tả Ngài là hiện thân tiêu biểu của Đại Từ Đại Bi, có thể hóa hiện 33 (hoặc 35) thân tướng khác nhau để tùy duyên cứu độ chúng sinh trong mọi hoàn cảnh, mọi thời gian và không gian.
Lòng từ bi của Bồ Tát Quán Thế Âm được ví như tình mẹ thương con, dịu dàng mà vô lượng, bao dung mà không phân biệt. Hình ảnh ấy cũng tương đồng với truyền thống tôn thờ Mẫu từ trong nhiều tôn giáo và nền văn hóa trên thế giới – như Đức Mẹ Maria trong Thiên Chúa giáo, Đức Mẹ Kali trong Ấn Độ giáo hay Đức Mẫu trong tín ngưỡng Việt Nam. Dù Bồ Tát Quán Thế Âm có thể hóa thân thành nhiều hình tướng – từ Phật, Bích Chi Phật, Thanh Văn, cho đến Phạm Vương, Đế Thích, Đại Tướng Quân, Tỳ Sa Môn Thiên Vương, Trưởng giả, Cư sĩ, Bà-la-môn, hay nam nữ Tỳ-kheo – thì hình ảnh được người đời cảm nhận sâu sắc nhất vẫn là hình tượng người mẹ hiền, biểu trưng cho tình thương vô điều kiện và lòng từ bi không giới hạn.
Khi Kinh Pháp Hoa cùng các bản dịch chính và phụ được truyền sang Trung Quốc (từ khoảng năm 255 đến năm 601), tư tưởng Đại Thừa về lòng từ bi phổ quát của Bồ Tát Quán Thế Âm dần lan tỏa sâu rộng. Trải qua nhiều thế kỷ, đặc biệt đến thời nhà Đường (618–907), hình tướng Quán Thế Âm nữ giới trở nên phổ biến và gần gũi trong đời sống dân gian. Từ đó, Ngài được tôn kính không chỉ như vị Bồ Tát Đại Bi cứu khổ cứu nạn, mà còn như người Mẹ thiêng liêng của muôn loài, biểu tượng của lòng thương yêu, che chở và cứu độ vô biên.
Vì sao có 3 ngày vía Bồ Tát Quán Âm

Vì sao có 3 ngày vía Bồ Tát Quán Âm?
Hằng năm, Phật tử khắp nơi trên thế giới đều thành tâm cử hành ba ngày vía Bồ Tát Quán Thế Âm một cách trang nghiêm và thanh tịnh vào các ngày 19 tháng 2, 19 tháng 6, và 19 tháng 9 âm lịch. Tuy nhiên, nhiều người chỉ biết đó là “ngày vía Bồ Tát Quán Âm” mà chưa rõ ý nghĩa sâu xa ẩn chứa trong từng ngày.
Thật ra, trong Thiền môn nhật tụng cổ xưa, các bậc Tổ đức đã ghi chép rất rõ:
- Ngày 19 tháng 2 âm lịch là ngày vía Đản Sanh – kỷ niệm ngày Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện ra đời để khởi đầu hạnh nguyện cứu khổ cứu nạn.
- Ngày 19 tháng 6 âm lịch là ngày vía Thành Đạo – ngày Bồ Tát chứng đắc đạo quả, viên mãn trí tuệ và từ bi, nguyện đem năng lực giác ngộ đó cứu độ tất cả chúng sanh.
- Ngày 19 tháng 9 âm lịch là ngày vía Xuất Gia – đánh dấu thời khắc Bồ Tát rời bỏ đời sống thế tục, phát tâm cầu đạo giải thoát, mở đầu cho con đường tu hành vô lượng kiếp để độ sanh.
Ba ngày vía ấy tượng trưng cho ba giai đoạn trọng yếu trong hạnh nguyện Bồ Tát:
- Đản sinh là biểu trưng cho sự khởi tâm từ bi nơi mỗi con người.
- Xuất gia là sự phát tâm cầu đạo, lìa bỏ vọng nhiễm để hướng về giác ngộ.
- Thành đạo là sự chứng đắc trí tuệ viên mãn, cứu khổ độ sanh không mỏi mệt.
Hiểu rõ ý nghĩa này, người Phật tử khi lễ vía Quán Thế Âm không chỉ dừng ở hình thức cúng lễ, mà cần hướng tâm noi theo hạnh nguyện Đại Từ Đại Bi, tu tập nghe tiếng khổ để cứu khổ, nghe tiếng đau để hóa giải đau, như tinh thần được trình bày trong Phẩm Phổ Môn – phẩm thứ 25 của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Thiền sư Thích Duy Lực trong Bài yếu chỉ Phẩm Phổ Môn đã chỉ rõ: muốn cảm ứng với Bồ Tát Quán Âm, trước hết cần chánh tín và chánh hạnh, luôn giữ tâm thanh tịnh, từ bi và không phân biệt. Khi tâm ta hòa nhập cùng lòng từ bi của Ngài, thì “Hữu cầu tất ứng” – hễ có lòng thành cầu cứu, tất được Ngài gia hộ.
Do đó, ba ngày vía Bồ Tát Quán Thế Âm không chỉ là dịp tưởng niệm, mà còn là ba cột mốc nhắc nhở người tu hành nuôi dưỡng tâm từ, phát nguyện rộng lớn và sống đời chánh tín, để được giao cảm với năng lực Đại Bi của Bồ Tát, chuyển hóa khổ đau, an vui trong hiện tại và vị lai.
Nếu muốn biết đường lối thực hành theo Tông chỉ Bồ tát Quán Thế Âm thì chúng ta cùng nhau tham khảo bài yếu chỉ Phẩm Phổ Môn, phẩm thứ 25, kinh Diệu Pháp Liên Hoa của Thiền sư Thích Duy Lực biên soạn :
PHẨM PHỒ MÔN
Thứ Hai mươi Lăm.
Phổ môn là phổ biến thị hiện sức dụng thần thông của Tự tánh.
Vô Tận Ý Bồ Tát hỏi Phật: "Quán Thế Âm Bồ Tát vì nhân duyên gì tên là Quán Thế Âm?"
Phật bảo: "Nếu có vô lượng chúng sanh chịu các khổ não, nhứt tâm xưng danh (nhứt tâm là chẳng có niệm nào khác) thì sức dụng Tự tánh Quán Thế Âm hiện ra, tất cả đều được giải thoát nên gọi là Quán Thế Âm, cũng gọi là Tự tánh tự độ".
Sức dụng của Tự tánh được hiện ra thì vào lửa chẳng cháy, xuống nước chẳng chìm, dao chém chẳng đứt, thuốc độc chẳng giết được, ác quỉ chẳng hại được, lìa được tất cả tham sân si và tà kiến.
Năm thứ quán của Bồ tát Quán Thế Âm là gì?
- Chân quán:là lập Chân để phá Vọng. Trước tiên phải xoay cái Tánh nghe trở về Tự tánh, thoát lìa âm thanh (sở nghe). Sở nghe đã tiêu thì Năng nghe cũng hết. Nên hai tướng động tịnh chẳng sanh, do đó sự dụng của lục căn (sáu giác quan) dung thông lẫn nhau gọi là nhĩ căn viên thông cũng gọi là "phản văn văn Tự tánh".
- Thanh tịnh quán:Là dùng thanh tịnh để đối trị sự ô nhiễm của năng sở. Năng nghe Sở nghe đã hết mà chẳng trụ nơi hết. Luôn cả tri giải về sự chẳng trụ cũng không.
- Từ quán:Là độ cho chúng sanh được vui mà chẳng có năng độ gọi là Vô Duyên Từ.
- Bi quán:Là độ cho chúng sanh lìa khổ mà chẳng có sở độ gọi là Đồng Thể Bi.
Khi Từ bi thể hiện thì ngã chấp (cái tôi ích kỷ) đều sạch. Tình cảm thương mến phát huy đến cùng tột, cũng như ánh sáng chiếu khắp mọi chúng sanh trong pháp giới vũ trụ, chẳng có thiếu sót. Như vậy được Hòa Quang Đồng Một (Nhiều đèn cùng chung một ánh sáng) Nên năng - sở đều diệt.
- Quảng đại trí huệ quán:Là trí huệ chiếu khắp pháp giới, quảng đại siêu việt số lượng. Tất cả năng sở, sinh diệt đều diệt thì tịch diệt hiện tiền, đây là thực tướng vĩnh viễn tồn tại cũng như phẩm Phương Tiện đã nói : "Chư pháp tùng bổn lai, thường tự tịch diệt tướng" vậy.
Phẩm này chỉ rõ sự diệu dụng của Tự tánh tự độ
"Quán Âm Diệu Trí Lực (diệu dụng của Tự tánh)
Năng cứu thế gian khổ"
Là nghĩa này vậy.
(Trích Yếu chỉ Kinh Pháp Hoa của Thiền sư Thích Duy Lực)
Các hiện thân của Bồ tát Quán Âm tại Việt Nam
Theo kinh Phẩm Phổ Môn, nếu có ai kêu cứu, và để cần hiện ra thân gì để cứu độ thì Quan Âm hiện ra thân đó như: thân quốc vương, thân tể tướng, thân nhi đồng, thân phụ nữ...” (phẩm Phổ môn).
Truyện tích về Quan Âm Thị Kính và Quan Âm Nam Hải (Diệu Thiện) ở Việt Nam được hình thành dựa trên quá trình tiếp biến văn hóa và cơ sở “thị hiện” này.






























