
Trên mảnh đất miền Trung đầy nắng gió, nơi từng trang sử dân tộc được khắc sâu bằng mồ hôi, trí tuệ và lòng trung nghĩa, Nghệ An từ lâu đã được xem là cái nôi sản sinh ra nhiều bậc anh tài, hào kiệt. Trong muôn ngàn gốc rễ văn hóa – lịch sử ấy, dòng họ Hồ gắn với vùng đất Yên Thành không chỉ là niềm tự hào của riêng xứ Nghệ, mà còn là một phần di sản quý báu của cả dân tộc Việt Nam.
1. Khởi nguyên từ Hồ Hưng Dật, vị tiền nhân khai sáng
Đền thờ Nguyên tổ Họ Hồ Việt Nam tại xã Ngọc Sơn, Quỳnh Lưu
Cội nguồn họ Hồ Việt Nam gắn liền với nhân vật lịch sử Hồ Hưng Dật (胡興逸, có tài liệu chép 胡興達) [1]. Theo Đại Việt sử ký toàn thư (Ngoại kỷ, quyển 5), ông là người đất Chiết Giang (khi đó là đất Ngô Việt, nay là Trung Quốc), từng đỗ Trạng nguyên, được cử sang giữ chức Thái thú Châu Diễn (thuộc Tĩnh Hải Quân, một châu quận của Nam Hán) vào đầu thế kỷ X [2]. Một số gia phả họ Hồ tại Nghệ An và Thái Bình cũng xác nhận về Hồ Hưng Dật, song cách ghi chép có đôi chỗ khác biệt: có bản chép ông là người Ngô Việt, có bản ghi ông thuộc Hậu Tấn, hoặc Nam Hán [3].
Khi đến Châu Diễn, thay vì quay về quê cũ sau khi từ nhiệm, Hồ Hưng Dật đã quyết định định cư tại hương Đào Bột (có sách chép là Bào Trạch), kết hôn với người bản địa và khai sáng dòng họ Hồ tại Việt Nam. Việc “từ lưu trú sang thường trú vĩnh viễn” này phản ánh một hiện tượng khá phổ biến trong thời kỳ Bắc thuộc cuối cùng, khi nhiều quan lại hoặc trí thức người Hoa hòa nhập với cư dân bản địa, tạo nên những dòng họ gắn bó lâu dài với tiến trình lịch sử Việt Nam [4].
2. Ngũ Bàu (Yên Thành) vùng đất phát tích của họ Hồ
Toàn cảnh vùng Ngũ Bàu – Yên Thành, Nghệ An
Theo truyền thống và gia phả, vùng Ngũ Bàu xưa (thuôc vùng Yên Thành nay), thường được gọi theo những tên địa phương cổ như Bàu Đột (còn viết Bào Đột / Bào Đót), đôi khi thấy ghi là Bào Trạch, và thường liên hệ với các tên phụ khác như Bàu Giang / Bàu Hồ tùy nguồn tài liệu, gồm năm làng cổ: Phú Hồ, Kinh Cùng, Yên Nhân, Thịnh Lộc, Cổ Lũy) được coi là nơi phát tích của họ Hồ ở Việt Nam [5]. Vùng đất “Ngũ Bàu” chỉ cụm năm bàu (vũng/ao/trũng nước) nơi phát nguyên các khe suối; trong truyền khẩu và một số tư liệu địa phương tên ấy còn được nhắc dưới dạng Bàu Đột (Bào Đột/Bào Đót) hoặc Bào Trạch. Nơi đây vừa thuận lợi về địa lý (lưng tự dãy Trường Sơn, mặt hướng biển Đông, sông nước, đầm vũng, đồng ruộng trù phú), vừa giàu truyền thống hiếu học nên được Hồ Hưng Dật lựa chọn là trị sở.
Tại Ngũ Bàu, nhiều chi họ Hồ lớn hình thành, tạo nên một cộng đồng có tính cố kết cao. Truyền thống “địa linh sinh nhân kiệt” thể hiện rõ: con cháu họ Hồ ở đây (Thọ Thành từ thế kỷ 10-15, Quỳnh Đôi từ thế kỷ 16-20) qua nhiều đời đều có người đỗ đạt, làm quan, tham gia các sự kiện lớn trong lịch sử dân tộc. Các tài liệu Hán Nôm hiện còn lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, cũng như gia phả họ Hồ Tam Công, Quỳnh Đôi, đều khẳng định mối liên hệ trực tiếp giữa Ngũ Bàu – Yên Thành với hành trạng Hồ Hưng Dật [6].
3. Dòng chảy văn hóa và truyền thống hiếu học
Thành nhà Hồ – Di sản Văn hóa Thế giới tại Thanh Hóa
Kể từ Hồ Hưng Dật, họ Hồ tại Châu Diễn – Nghệ An (bao gồm Hà Tĩnh) đến nay đã giữ gìn và phát huy mạnh mẽ truyền thống hiếu học, cần cù, đoàn kết. Các thế hệ hậu duệ tiếp nối không chỉ đóng góp trong lĩnh vực khoa cử, văn học, chính trị mà còn trong quân sự, kinh tế, y tế và văn hóa nghệ thuật.
Ngày nay, tuy dòng họ Hồ đã phát triển rộng khắp cả nước, nhưng Nghệ An, đặc biệt là vùng Yên Thành, Quỳnh Lưu (Châu Diễn xưa) vẫn được coi là quê gốc thiêng liêng. Tại đây còn nhiều di tích gắn với họ Hồ ngày nay như: nhà thờ họ Hồ Tam Công ở xã Thọ Thành, đền thờ Hồ Hưng Dật ở vùng Ngọc Sơn, nhà thờ họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi và Đình Lăng Thành cùng các bản gia phả được bảo tồn hàng trăm năm [7].
Truyền thống hiếu học và tinh thần nhập thế vẫn được hun đúc qua từng thế hệ. Nhiều nhân vật mang dòng họ Hồ hiện nay đã và đang giữ vai trò quan trọng trong chính trị, quân sự, khoa học, giáo dục, văn hóa nghệ thuật và doanh nghiệp. Điều đó cho thấy sự tiếp nối hữu cơ giữa truyền thống lịch sử và sự phát triển hiện đại, đồng thời khẳng định vị trí của họ Hồ như một dòng họ lớn gắn bó mật thiết với lịch sử dân tộc.
Cụm 3 công trình nổi tiếng của họ Hồ tại Nghệ An (Tam Công, Bào Đột, Quỳnh Đôi) được nhà nước xếp hạng công trình lịch sử văn hóa cấp quốc gia. Ngoài ra, Đình Lăng Thành, nơi thờ thành hoàng làng Hồ Hưng Dật tại xã Lăng Thành cũng được xếp hạng di tích cấp quốc gia và nhiều đền, chùa khu vực này đều có dấu ấn hoặc thờ Hồ Hưng Dật.
Tài liệu tham khảo
[1] Gia phả họ Hồ Quỳnh Đôi (bản Hán Nôm), Nghệ An.
[2] Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch Nxb KHXH, Hà Nội, 1993.
[3] Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb Giáo dục, 1998.
[4] Keith W. Taylor, A History of the Vietnamese, Cambridge University Press, 2013.
[5] Truyền thống địa phương Yên Thành – Quỳnh Lưu, Nghệ An (ghi trong Nghệ Tĩnh văn học sử của Nguyễn Đổng Chi, 1957).
[6] Viện Nghiên cứu Hán Nôm, tư liệu ký hiệu A.1645, A.2137 (Gia phả họ Hồ).
[7] Hồ Sĩ Vịnh (2002), Họ Hồ Việt Nam – truyền thống và phát triển, Nxb Văn hóa Thông tin.