Ghi nhớ (mã hoá thông tin) là quá trình hình thành dấu vết, “ấn tượng” của đối tượng mà ta đang tri giác (tức là tài liệu phải ghi nhớ) trên vỏ não, đồng thời cũng là quá trình hình thành mối liên hệ giữa tài liệu mới và tài liệu cũ đã có, cũng như mối liên hệ giữa các bộ phận của bản thân tài liệu mới với nhau.
1. Tổng quan về ghi nhớ
Không phải cái gì con người cũng có thể nhớ được trọn vẹn, hoàn chỉnh. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm trí nhớ nhưng dưới đây là những lí do cơ bản:
- Thứ nhất, quên do vấn đề cần được nhớ không liên quan đến đời sống hoặc ít liên quan, ít có ý nghĩa thực tiễn đối với cá nhân. Trong thực tiễn cuộc sống, mỗi cá nhân đều vấn đề chủ yếu cần phải nhớ; người học sinh có vấn đề chủ chốt là kiến thức học tập. Tuy nhiên nếu họ gặp những vấn đề thuộc ngoài lĩnh của mình 1 hoặc vài lần thì dễ quên. Những cái gì không được nhắc đi nhắc lại hoặc không được sử dụng thường xuyên trong hoạt động hằng ngày của cá nhân thì dễ bị quên.
- Thứ hai, quên do sự việc cần nhớ không liên quan đến đời sống chủ thể, hoặc có yếu tố không phù hợp với hứng thú, sở thích, nhu cầu của chủ thể. Nhu cầu thường trở thành động lực thúc đẩy cá nhân hoạt động nhằm thỏa mãn chính những nhu cầu đó. Bởi vậy những gì đáp ứng nhu cầu có thể nói là ấn tượng khó quên của con người. Ngược lại nếu những vấn đề, vật chất, tinh thần nào đó mà không đáp ứng nhu cầu thì con người rất dễ quên. Hứng thú là cơ sở để ta nhớ lâu.
- Thứ ba, quên do không thể chuyển một hiện tượng, sự vật từ trí nhớ ngắn hạn sang trí nhớ dài hạn khi chưa hiểu kĩ bản chất của vấn đề đó. Thực tế cho thấy, đôi khi chúng ta không nhớ được điều gì đó thường do chưa hiểu kĩ điều cần nhớ. Muốn được lưu giữ trong trí óc để sẵn sàng tái hiện, thì điều cần nhớ phải đã từng đặt dấu ấn chính xác, rõ ràng và mạnh mẽ trên trí óc. Điều này được thể hiện rõ trong quá trình học tập. Một bài toán nếu không nắm được bản chất, không hiểu sâu thì dễ quên, khi gặp cái dạng bài tương tự có biến đổi thì không làm được.
2. Các phương pháp ghi nhớ
2.1. Nguyên tắc “Trí nhớ siêu đẳng” của Adam Khoo (2009)
Nghiên cứu của những người phi thường, các nhà khoa học đã khám phá ra rằng để hoạt động ghi nhớ được diễn ra hiệu quả, cần thiết lập được nguyên tắc “Trí nhớ siêu đẳng” sau:
Màu sắc | ||||||
Ghi nhớ | = | Sự hình dung | + | Sự liên tưởng | + | Sự nổi bật |
Âm điệu |
Sự hình dung kết hợp với sự liên tưởng và sự nổi bật, trong đó có tác động của màu sắc, âm điệu:
- Sự hình dung là việc HS phải chuyển hóa kiến thức thành hình ảnh để lưu vào não bộ một cách dễ dàng. Trong bài kiểm tra, thi cử thì HS sẽ nhớ lại những hình ảnh đó và chuyển chúng thành các câu trả lời hợp lý. Bởi HS có khuynh hướng nhớ hình ảnh hơn từ ngữ.
- Sự liên tưởng là tạo ra mối liên kết giữa những việc chúng ta cần ghi nhớ, liên kết những hình ảnh (hình dung kết hợp với liên tưởng) trong tâm trí chúng ta lại. Những liên kết này như một mục lục được sắp xếp hệ thống giúp chúng ta dễ dàng tìm lại được thông tin.
- Sự nổi bật là khuynh hướng thường được lưu trữ trong não bộ. Bởi những sự việc nổi bật, chúng ta sẽ ghi nhớ hơn là những sự kiện bình thường. Khi tạo ra những tình huống làm nổ bật thông tin, HS sẽ tăng cường trí nhớ của mình hơn.
- Màu sắc có tác động mạnh mẽ tới trí nhớ, nên sử dụng nhiều màu sắc cho ghi chú.
- Sử dụng âm điệu riêng trong học tập bằng cách bật những bản nhạc không lời, những âm điệu riêng biệt sẽ kích thích quá trình ghi nhớ.
2.2. Áp dụng nguyên tắc “Trí nhớ siêu đẳng” để nhớ từ ngữ
Để thiết lập được nguyên tắc “Trí nhớ siêu đẳng”, cần sử dụng trí tưởng tượng để kết hợp hình ảnh vào thông tin mà HS muốn ghi nhớ. Trong quá trình tưởng tượng, HS sẽ sử dụng màu sắc, sự chuyển động, các chi tiết đối nghịch, hài hước… Nguyên tắc ghi nhớ này có 2 bước:
- BƯỚC 1 (Hình dung): Bước đầu tiên là tạo ra hình ảnh về những từ ngữ hoặc vấn đề muốn ghi nhớ. Mỗi hình ảnh cụ thể sống động sẽ tương ứng với một từ ngữ hoặc sự kiện. Nếu cần ghi nhớ một danh sách mười từ, hãy tạo ra mười hình ảnh trong tâm trí.
- BƯỚC 2 (Liên tưởng): Bước tiếp theo là liên kết tất cả các hình ảnh lại với nhau để tạo thành một câu chuyện. Câu chuyện này rất quan trọng vì nó giúp sự liên tưởng trở nên mạnh mẽ. Trong câu chuyện, HS nên sử dụng nhiều chuyển động, nhiều màu sắc, âm điệu. Điều quan trọng nhất là câu chuyện là phải nghịch lý, hài hước và đáng nhớ.
Ví dụ:
Một danh sách gồm 12 thứ cần mua sắm:
- trứng
- thịt bò
- nĩa và muỗng
- áo tắm
- nước hoa
- chuối
- ly
- nước cam
- xà bông
- bàn chải đánh răng
- sơn
- nước sơn móng tay
Sử dụng nguyên tắc “Trí nhớ siêu đẳng”, hãy hình dung cảnh bạn đang cầm trên tay một quả trứng trơn láng nóng hổi khi đi ra khỏi nhà. Say sưa với cảm giác trơn láng của vỏ trứng, em vô tình làm hổng một lỗ nhỏ trên quả trứng. Từ trong đó bất ngờ hiện ra một cái đầu bò có hai sừng. Sừng trái có hình dạng một chiếc muỗng bạc trong khi sừng phải có hình dạng một chiếc nĩa. Bạn tình cờ lắc mạnh chiếc nĩa làm chiếc nĩa đâm mạnh vào một cô gái đang mặc bộ áo tắm chấm bi nồng nặc mùi nước hoa. Bị đâm đau bất ngờ, cô gái làm rớt trái chuối trên tay xuống sàn. Không kịp nhìn thấy, bạn bị trượt vỏ chuối và té sầm vào một hàng ly thủy tinh chứa đầy nước cam. Mặt sàn bị vấy dơ và ông chủ ra lệnh bạn phải lau chùi sàn sạch sẽ với xà bông nhưng lại phải dùng bàn chải đánh răng để chà. Khi bạn đang chà sàn, bạn lại vô tình làm tróc vạch sơn đỏ trên sàn. Lo lắng, bạn tìm cách che lấp vết tróc bằng nước sơn móng tay màu đỏ.
Bây giờ, nếu HS hình dung lại câu chuyện vô lý và khôi hài ở trên, HS sẽ nhớ lại danh sách những thứ cần mua sắm dễ dàng.
Chú ý khi tạo câu chuyện để liên kết tất cả các từ cần nhớ, chúng ta đã dùng: sự chuyển động (“rớt chuối”, “hiện ra một cái đầu bò”) sự hài hước (“đâm mạnh vào cô gái”) sự nghịch lý (“đầu bò từ trong trứng”, “sừng bò có hình dạng nĩa và muỗng”) năm giác quan (“nồng nặc mùi nước hoa”, “quả trứng nóng hổi trơn láng”)
2.3. Áp dụng nguyên tắc “Trí nhớ siêu đẳng” để ghi nhớ con số
Bằng việc gán một chữ cái có thể hình dung được vào mỗi chữ số. Một khi ta hình dung được các số, ta có thể nhớ chúng dễ dàng. Kỹ năng này đặc biệt hiệu quả trong việc nhớ ngày tháng năm, công thức và các phương trình hóa học.
Mỗi chữ số từ 0 đến 9 thường được gán vào một hoặc hai chữ cái. Khi HS nhớ được các chữ cái này, HS sẽ có thể chuyển bất kỳ số nào (thậm chí cả những số có nhiều hơn bốn chữ số) thành một hình ảnh tương ứng lưu vào tâm trí. Dưới đây là 10 chữ số cơ bản và các chữ cái tương ứng.
0 | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 |
s, x | t | n | m | r, q | l | g | k, c | v, d,đ | b, p |
Cách thức ghi nhớ gồm các bước như sau:
BƯỚC 1: Hình tượng hóa con số thông qua ký tự chữ viết
Con số | Cách nhớ |
0 | Số “0” khiến HS liên tưởng đến hình ảnh gạch chéo X – chữ “x”. Chữ “x” lại có cách phát âm tương tự như “s” giúp HS nhớ rằng chữ “x” và “s” liên quan đến số 0. |
1 | Số 1 được tạo thành từ một gạch dọc và thường có thêm một gạch ngang ở dưới. Tương tự, chữ “t” cũng có một gạch dọc và một gạch ngang. Chữ “T” viết hoa lật ngược lại nhìn cũng giống số 1. |
2 | Số 2 khiến HS nhớ tới chữ “n” vì “n” có 2 gạch dọc. |
3 | Số 3 khiến HS nhớ tới chữ “m” vì “m” có 3 gạch dọc. Một cách nhớ khác nữa là nếu HS lật số 3 xuống 90 độ ngược chiều kim đồng hồ, HS sẽ có chữ “m”. |
4 | Số 4 khiến HS liên tưởng đến chữ “r” vì hình ảnh phản ánh trong gương của chữ “R ” viết hoa rất giống số 4. Chữ “q” cũng có hình dạng tương tự như số 4. HS hãy tưởng tượng một “số 4 tròn trĩnh”. |
5 | Hãy để ý bàn tay và 5 ngón tay của HS. HS có thấy khoảng cách giữa ngón trỏ và ngón cái của HS tạo thành hình chữ “L” không? Do đó, số 5 sẽ khiến HS nghĩ tới chữ “l” |
6 | Số 6 khi bị lật ngược xuống rất giống chữ “g”. |
7 | Số 7 trong gương và ở ngoài khi nằm cạnh nhau tạo thành chữ “k” hướng xuống dưới. HS có thể nhớ tới cụm từ “không có” để nhớ rằng chữ “k” và “c” liên quan đến số 7. |
8 | Số 8 khiến HS liên tưởng đến hình ảnh 2 cơn lốc xoáy vào nhau mà gió còn được gọi là “vũ” khiến HS nhớ đến chữ “v”. Cụm từ “vũ đạo” sẽ giúp HS nhớ tiếp chữ “d/đ”. |
9 | Số 9 khi bị lật ngược xuống nhìn giống chữ “b” trong khi hình ảnh phản ánh trong gương của số 9 lại giống chữ “p”. |
BƯỚC 2: Tìm một từ hoặc cụm từ hình dung được có chứa các chữ cái tương ứng với các số chúng ta cần nhớ.
Ví dụ 1: Số 21 được tạo thành từ số 2 và số 1. Chúng ta đã biết rằng số 2 tương ứng với chữ “n” và số 1 tương ứng với chữ “t”. Chúng ta dễ dàng nhận thấy số “21” có thể được đại diện bằng hình ảnh một cái “nút”.
Ví dụ 2: Số 94 gồm có số 9 và số 4. Số 9 có chữ “b” và số 4 có chữ “r”. Dĩ nhiên chúng ta có thể nghĩ đến hình ảnh một miếng thịt “ba rọi” để nhớ số 94. Tuy nhiên, xin chú ý rằng, từ “bánh rế” mặc dù có chữ “b” và “r” nhưng không thể đại diện cho số 94 vì thật ra nó đại diện cho số 924 (xem kỹ “bánh rế” thì thấy có thêm chữ “n” ở giữa “b” và “r”). Đây là một lỗi rất thường gặp khi tạo ra từ hoặc cụm đại diện.
Mục tiêu chính của bước này là chuyển đổi các số (trừu tượng) khó nhớ thành một từ hoặc cụm từ có thể hình dung được trong tâm trí khiến các số dễ nhớ hơn.
BƯỚC 3: Đảo ngược lại, nêu ra một cụm từ và tự chuyển đổi cụm từ ấy thành con số
Ví dụ 1: Cụm từ “bị la”. Chuyển đổi từ này thành số dựa vào chữ cái đại diện thì đó là số mấy? Đó chính là số 95. Lưu ý rằng chữ “i” và “a” không đại diện cho bất kỳ chữ số nào.
Ví dụ 2: Cụm từ “Nhi ở khu D” thì đại diện cho số nào? Đó chính là số 278 vì các chữ “h”, “i”, “o” và “u” không đại diện cho bất kỳ chữ số nào.
Như vậy có nghĩa rằng, các ký tự đầu tiên của cụm từ sẽ giữ vai trò chuyển đổi.
BƯỚC 4: Tạo ra hình ảnh của nội dung cần nhớ, sau đó vẽ nên câu chuyện bất hợp lý để liên kết hình ảnh của nội cần nhớ với cụm từ đã chuyển đổi từ con số.
Ví dụ 1: Ghi nhớ sự kiện lịch sử Mỹ thả quả bom nguyên tử đầu tiên vào ngày 6 tháng 8 năm 1945.
Vì đây là sự kiện thả bom nguyên tử, bước đầu tiên là HS phải hình dung một quả bom nguyên tử trong tâm trí HS. Kế tiếp, chuyển ngày tháng thành các số tương ứng, 6-8-45. Chuyển đổi số 6845 thành một hình ảnh cụ thể dựa.
HS có thể chia số này thành hai cặp 68 và 45. Như vậy, 68 có thể được chuyển thành “gà và ó”, còn 45 thành “rơi lỗ”. Bước cuối cùng là tạo một mối liên kết nghịch lý giữa “quả bom nguyên tử”, “gà và ó” và “rơi lỗ”.
Tưởng tượng một con gà trống và một con ó đen đang đánh nhau quyết liệt thì bị rơi xuống lỗ khi quả bom nguyên tử đầu tiên nổ ra. Do đó, mỗi khi HS nghĩ đến quả bom nguyên tử đầu tiên, HS sẽ nhớ tới “gà và ó”, “rơi lỗ” giúp HS chuyển thành số 6-8-45 (tức là ngày 6 tháng 8 năm 1945) ngay lập tức.
3. Dấu hiệu ghi nhớ hiệu quả
- HS ghi nhớ có chủ đích, tiếp thu tri thức một cách tự nguyện chứ không phải ghi nhớ một cách thụ động, máy móc, để nhớ cho có nhớ.
- Việc ghi nhớ đòi hỏi HS phải có ý chí, nỗ lực cũng như vận dụng phương pháp nhất định.
- HS hình dung, liên tưởng, làm nổi bật được các hình ảnh, qua đó tạo nên cho HS sự ghi nhớ kiến thức.
- HS sử dụng được phương pháp ghi nhớ để giải quyết các bài tập GV đưa ra trong buổi học.
- HS vận dụng được phương pháp ghi nhớ để ghi nhớ các nội dung kiến thức được học từ nhà trường, từ xã hội.
- Hình thành ở HS năng lực tư duy trừu tượng, tư duy sáng tạo và kỹ năng làm việc độc lập.